Sự cần thiết hoàn thiện quy trình hoạch định chính sách công của Việt Nam thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế

ThS. TRỊNH THỊ KIỂU ANH

Bộ Công an

Chính sách công là một trong những công cụ cơ bản được Nhà nước sử dụng để phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Ở mỗi giai đoạn phát triển, yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả các chính sách công luôn được đặt ra. Để làm được điều đó cần có sự hoàn thiện quy trình chính sách; trong đó có quy trình hoạch định chính sách – bước khởi đầu đặc biệt quan trọng của quy trình chính sách.

Chính sách công do nhà nước ban hành để giải quyết một hoặc một số vấn đề liên quan lẫn nhau đang đặt ra trong đời sống kinh tế – xã hội theo những mục tiêu xác định (tuy nhiên không phải vấn đề nào nảy sinh trong đời sống kinh tế – xã hội cũng cần có chính sách điều chỉnh). Việc giải quyết nhằm thay đổi hoặc duy trì một hiện trạng nào đó. Khi nói tới chính sách công là bao gồm những dự định của nhà hoạch định chính sách và các hành vi thực hiện những dự định đưa lại kết quả thực tế. Vì vậy, chính sách công được hiểu là “Những quy định về sự ứng xử của nhà nước với các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng, được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng” (1). Hay chính sách công cũng chính là “Một chuỗi các quyết định hành động của Nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề chung đang được đặt ra trong đời sống kinh tế – xã hội theo mục tiêu xác định” (2).

Ở nước ta, chính sách được hiến định tại Điều 26 Hiến pháp 1992, sửa đổi năm 2001: “Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách…”. Như vậy, chính sách công là một trong những công cụ cơ bản được Nhà nước sử dụng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước. Song hiện nay đang tồn tại cụm từ “chính sách của Đảng và Nhà nước”. Thực tế, ở nước ta, Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội thông qua việc vạch ra các cương lĩnh, chiến lược, các định hướng chính sách – Đó chính là những căn cứ chỉ đạo để nhà nước ban hành các chính sách công. Các chính sách công là do Nhà nước ban hành. Các chính sách này là sự cụ thể hóa đường lối, chiến lược và các định hướng chính sách của Đảng. (Do vậy việc đề cập tới chính sách công ở đây được hiểu là các chính sách công do Nhà nước ban hành). Chính sách công ở Việt Nam thường được thể chế hóa thành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm tạo căn cứ pháp lý cho việc thi hành, song nó bao gồm những phương án hành động không mang tính bắt buộc, mà có tính định hướng, kích thích phát triển.

Đối với một chu trình chính sách thường bắt đầu từ việc hoạch định chính sách, tiếp theo là thực thi chính sách và sau một khoảng thời gian thực hiện cần tiến hành phân tích chính sách để điều chỉnh, bổ sung chính sách… Như vậy, hoạch định chính sách là bước khởi đầu trong chu trình chính sách. Đây là bước đặc biệt quan trọng. Hoạch định chính sách đúng đắn, khoa học sẽ xây dựng được chính sách tốt, là tiền đề để chính sách đó đi vào cuộc sống và mang lại hiệu quả cao. Ngược lại, hoạch định sai cho ra đời chính sách không phù hợp với thực tế, thiếu tính khả thi sẽ mang lại hậu quả không mong muốn trong quá trình quản lý. Những tổn hại này không chỉ tạm thời, cục bộ, mà nó ảnh hưởng lâu dài, liên quan tới nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau.

Hoạch định chính sách công là công việc thường xuyên của Nhà nước và được xây dựng thành quy trình. Quy trình hoạch định chính sách công chính là trình tự, công đoạn để tạo ra một chính sách công. Hiện nay quy trình hoạch định chính sách do nhà nước ta ban hành, theo tôi, được thực hiện theo sơ đồ sau:

Quy trình hoạch định chính sách ở nước ta được thực hiện tuần tự các bước như sau: Nêu lý do hoạch định chính sách, xây dựng dự thảo các phương án chính sách, lựa chọn phương án dự thảo tốt nhất, hoàn thiện phương án lựa chọn, thẩm định phương án chính sách, quyết nghị ban hành chính sách, công bố chính sách. Trong thực tế, các chính sách công của nước ta chủ yếu được thể chế hoá bằng nghị quyết của Chính phủ nên quy trình hoạch định chính sách công được tiến hành theo quy định ban hành nghị quyết của Chính phủ tại các điều 59, 60, 61, 62, 63, 64 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm1996, sửa đổi năm 2002.

Thời gian qua, việc hoạch định chính sách công ở nước ta đã cho ra đời nhiều chính sách phù hợp với thực tế, thực thi đem lại hiệu quả mà biểu hiện cụ thể là đã góp phần vào phát triển kinh tế – xã hội của đất nước ta trong hơn 20 thực hiện công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, quy trình hoạch định chính sách công như nêu trên cũng còn bộc lộ một số tồn tại, đó là: các kiến nghị hoạch định chính sách chủ yếu xuất phát từ các cơ quan nhà nước được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước. Việc dự thảo chính sách thường là do các bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan đặc biệt của Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện. Như vậy, chính sách công được ban hành dựa trên suy xét, phân tích tình hình thực tế và trên cơ sở những mong muốn quản lý của từng cơ quan nhà nước. Sự tham gia đề xuất ý tưởng hoạch định chính sách, hoặc đóng góp vào xây dựng các phương án, biện pháp chính sách của các đối tượng bị ảnh hưởng bởi chính sách là rất hạn chế. Rất ít các chính sách công được ban hành xuất phát từ ý tưởng của những đối tượng bị chính sách chi phối, ảnh hưởng và các biện pháp thực hiện chính sách do những nhà quản lý xây dựng nên. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho một số chính sách tính khả thi thấp, hoặc khi thực thi không đem hiệu quả như nhà quản lý mong muốn. Bên cạnh đó, các ý tưởng hoạch định chính sách được đề xuất, và dự thảo chính sách chủ yếu do cơ quan nhà nước (chủ yếu là do các bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố thực hiện) thì dễ nảy sinh tình trạng cục bộ, bản vị; đề xuất dựa trên mong muốn, mục đích quản lý của ngành, địa phương do mình quản lý mà không tính tới tổng thể chung. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao và căn cứ vào tình hình quản lý, các bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố để đề xuất dự thảo chính sách trong lĩnh vực quản lý được giao và cũng chính là cơ quan dự thảo, do đó thiếu sự phối hợp giữa các bộ, ngành nên chính sách thiếu tính toàn diện. Biểu hiện cụ thể của tình trạng này là có một vấn đề nhiều bộ, ngành ra chính sách thực hiện, nhưng có những vấn đề lớn thì lại không có bộ, ngành nào tham gia đề xuất, xây dựng chính sách. Dẫn tới tình trạng tạo “khoảng trống” trong quản lý nhà nước không có chính sách để điều chỉnh.

Việc hoạch định chính sách công của nhà nước hiện nay chủ yếu được tiến hành theo quy trình soạn thảo, ban hành nghị quyết của Chính phủ. Trong khi đó, nghị quyết của Chính phủ là văn bản quy phạm pháp luật mang tính bắt buộc thực hiện. Hiện nay, quy trình hoạch định chính sách công được thực hiện theo quy định về soạn thảo, ban hành nghị quyết của Chính phủ trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 sửa đổi 2002 còn mang tính chất khung chưa phân công rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và cả chế tài đối với tập thể hoặc cá nhân trong từng khâu, công đoạn từ soạn thảo, lựa chọn phương án, thẩm định, ban hành…

Quy trình hoạch định chính sách còn bị khép kín; việc lấy ý kiến tham gia của các đối tượng chịu sự điều chỉnh trực tiếp của chính sách còn ít, nếu có thì hình thức; việc tiếp thu ý kiến của các bộ, ngành chưa thể hiện tính chủ động. Mặt khác, chưa có quy định cụ thể để huy động được trí tuệ của nhân dân, các chuyên gia, các nhà khoa học tham gia vào hoạch định chính sách là vô hình chung làm hạn chế cách nhìn nhận, giải quyết vấn đề. Chẳng hạn, trong hoạch định chính sách việc dự báo chính sách rất quan trọng. Thời gian qua, khi một số biến động về giá cả, tình trạng lạm phát trên thế giới và ở nước ta, cho thấy việc dự báo chính sách còn nhiều yếu kém. Dự báo chính sách phải dựa trên cơ sở khoa học, thực tiễn. Nếu trong hoạch định chính sách không có sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học thì việc dự báo chính sách gặp rất nhiều khó khăn. Trong quá trình hoạch định chính sách công chưa tạo được kênh thông tin tốt nhất để tiếp thu ý kiến đóng góp của những đối tượng chịu ảnh hưởng của chính sách. (Việc này ảnh hưởng tới tính tự giác thực hiện chính sách…). Trong khi đó, chính sách không thể là ý muốn chủ quan của cơ quan nhà nước, càng không phải là ý chí áp đặt của cá nhân có thẩm quyền mà xuất phát từ hiện thực khách quan, từ việc tìm kiếm, phát hiện, nhận thức một cách biện chứng các vấn đề nảy sinh trong đời sống kinh tế – xã hội và có các phương án giải quyết phù hợp với thực tế. (Từ thực tiễn để hoạch định chính sách, đó cũng chính là biểu hiện tính khách quan của chính sách). Một chính sách đúng đắn phải từ thực tế khách quan.

Đất nước ta đang trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, các chính sách công bị nhiều chi phối, ảnh hưởng không chỉ ở phạm vi nhất định trong lãnh thổ của một quốc gia mà còn bị chi phối bởi các yếu tố mang tính toàn cầu. Chẳng hạn như chính sách đối với vấn đề phát triển nông nghiệp. Qua sự kiện giá gạo trên thị trường thế giới bị đẩy lên cao, vấn đề an ninh lương thực đặt ra… Chính sách phát triển nông nghiệp ở nước ta cần phải có sự tính toán, cân nhắc, điều chỉnh lại. Như vậy, chính sách công của một quốc gia cũng đang phải chịu nhiều sự chi phối ở mức độ và phạm vi rộng lớn hơn. Trong việc hoạch định chính sách công cần phải có sự tổng kết, phân tích, đánh giá tình hình, tác động ảnh hưởng tới quá trình thực hiện chính sách, các biện pháp thực hiện chính sách, và từ đó làm căn cứ để lựa chọn phương án chính sách phù hợp với thực tế.

Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, cần thiết phải hoàn thiện quy trình hoạch định chính sách công của Nhà nước ta trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế./.

 

Ghi chú:

(1) Giáo trình hoạch định chính sách công, Học viện Hành chính Quốc gia, Tr 21.

(2) Thuật ngữ Hành chính, Học viện Hành chính quốc gia, Tr 53.

 

theo   caicachhanhchinh.gov.vn

Comments are closed.