(napa.vn) – Học viện Hành chính Quốc gia được xác định là trung tâm quốc gia thực hiện các chức năng đào tạo, bồi dưỡng năng lực, kiến thức, kỹ năng về hành chính, về lãnh đạo, quản lý cho cán bộ, công chức, viên chức; đào tạo nguồn nhân lực; nghiên cứu khoa học hành chính và tư vấn cho Bộ Nội vụ trong lĩnh vực hành chính và quản lý nhà nước. Trong 63 năm, trải qua nhiều giai đoạn với nhiều tên gọi khác nhau, Học viện Hành chính Quốc gia đã không ngừng phát triển, trưởng thành cả về quy mô, số lượng và chất lượng. Học viện đã có được thế và lực cần thiết để vươn tầm trở thành trung tâm quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý ngang tầm khu vực.
Học viện Hành chính Quốc gia – hành trình qua hai thế kỷ
Ngày 29/5/1959, Trường Hành chính trực thuộc Bộ Nội vụ, cơ sở đào tạo đầu tiên về hành chính ở nước ta được thành lập ở thôn Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh theo Nghị định số 214-NV do Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phan Kế Toại ký về việc thành lập Trường Hành chính. Trường trực thuộc Bộ Nội vụ, có nhiệm vụ huấn luyện cán bộ chính quyền cấp huyện, góp phần xây dựng chính quyền cách mạng, hoàn thành mục tiêu kháng chiến và kiến quốc.
Từ khởi đầu này, 63 năm qua, trải qua nhiều giai đoạn với nhiều tên gọi khác nhau, Học viện Hành chính Quốc gia (sau đây viết tắt là Học viện) đã không ngừng phát triển, trưởng thành cả về quy mô, số lượng và chất lượng. Các thế hệ lãnh đạo, đội ngũ các nhà giáo, cán bộ khoa học, công chức, viên chức, người lao động của Học viện đã tận tâm, tận lực, chung sức, chung lòng, phát huy cao độ tinh thần lao động sáng tạo để xây dựng Học viện phát triển về mọi mặt, thực hiện tốt nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng (ĐTBD) cán bộ và nghiên cứu khoa học hành chính, quản lý công và các nhiệm vụ khác được cấp có thẩm quyền giao phó. Học viện đạt được những thành tựu to lớn, đóng góp tích cực và có hiệu quả vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước trước đây cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Học viện luôn được xác định là trung tâm quốc gia thực hiện các chức năng ĐTBD năng lực, kiến thức, kỹ năng về hành chính, về lãnh đạo, quản lý cho cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC); đào tạo nguồn nhân lực; nghiên cứu khoa học hành chính và tư vấn cho Bộ Nội vụ trong lĩnh vực hành chính và quản lý nhà nước (QLNN). Học viện đã có được thế và lực cần thiết để vươn tầm trở thành trung tâm quốc gia về ĐTBD cán bộ lãnh đạo, quản lý ngang tầm khu vực.
Trong 63 năm, Học viện đã ĐTBD số lượng đáng kể cán bộ lãnh đạo, quản lý trung, cao cấp, CBCCVC cho hệ thống hành chính nhà nước, hệ thống chính trị nước ta. Từ những thập niên 90 của thế kỷ XX, bình quân hằng năm, có hơn 10.000 lượt CBCCVC được ĐTBD theo ngạch, theo chức danh; hàng trăm học viên thạc sỹ và tiến sỹ. Từ đó, Học viện đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đội ngũ CBCCVC của nước nhà. Điều trân trọng là nhiều học viên, sinh viên của Học viện đã và đang giữ những trọng trách trong các cơ quan của Đảng, Quốc hội và Chính phủ; lãnh đạo các trường đại học, học viện, các tập đoàn doanh nghiệp lớn… Có thể nói, đi bất kỳ đâu trên Tổ quốc ta và cả ở nước ngoài, đến bất kỳ bộ, ban, ngành, tập đoàn, doanh nghiệp, địa phương, đều có “dấu ấn” của các thế hệ học viên và sinh viên của Học viện. Những kết quả ĐTBD các năm gần đây đã phần nào phản ánh thành quả lao động của tập thể cán bộ, viên chức, người lao động của Học viện qua các thời kỳ trong công tác ĐTBD.
Đồng thời với hoạt động ĐTBD, qua các thời kỳ, Học viện đã và đang tiên phong trong đổi mới nội dung chương trình, phương pháp ĐTBD CBCCVC, gắn với thực tiễn hành chính nhà nước để tìm hướng nâng cao chất lượng ĐTBD. Với nội lực của mình, Học viện đã được Bộ Nội vụ tin tưởng giao nhiệm vụ biên soạn các chương trình, giáo trình, tài liệu của các loại hình ĐTBD, theo các cấp độ khác nhau, bổ sung cho nhau, đáp ứng nhu cầu nâng cao năng lực đa dạng cho các đối tượng học viên từ bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch (chuyên viên, chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp); bồi dưỡng theo vị trí việc làm lãnh đạo, quản lý (cấp phòng, cấp huyện, cấp sở, cấp vụ); bồi dưỡng theo nhu cầu (như: về văn hóa công vụ, chính phủ điện tử, thi đua, khen thưởng, tôn giáo, hành chính doanh nghiệp…). Học viện cũng đã chuyển giao các chương trình, tài liệu ĐTBD này cho các cơ sở ĐTBD khác ở trung ương và địa phương.
Học viện luôn xác định rằng, cùng với ĐTBD, nghiên cứu khoa học, tham mưu, tư vấn chính sách là những trụ cột quan trọng trong hoạt động của Học viện. Hoạt động nghiên cứu khoa học không ngừng được đẩy mạnh với trọng tâm là phục vụ trực tiếp cho công tác ĐTBD của Học viện và tham gia giải đáp những vấn đề bức thiết của thực tiễn cải cách hành chính, tư vấn chính sách cho Chính phủ, các cơ quan QLNN và các tổ chức, cá nhân ở trung ương và địa phương. Nhiều sản phẩm khoa học và công nghệ của Học viện có giá trị thực tiễn cao, thể hiện trí tuệ, sức lực của đội ngũ các nhà khoa học của Học viện các thời kỳ. Đơn cử như, trong giai đoạn 2017 – 2021, đã có 2 đề tài khoa học cấp nhà nước; 31 đề tài khoa học cấp bộ, cấp tỉnh; 246 đề tài khoa học cấp cơ sở. Tổ chức 48 hội thảo, tọa đàm khoa học quốc tế; 216 hội thảo, tọa đàm cấp quốc gia, Học viện. Biên soạn 174 chương trình, giáo trình, tài liệu…
Trong lĩnh vực hợp tác quốc tế, Học viện đã tích cực chủ động trong việc thiết lập mối quan hệ với các cơ sở ĐTBD, nghiên cứu khoa học có uy tín của nhiều nước và các tổ chức quốc tế. Học viện đã xây dựng và phát triển thành mạng lưới hợp tác quốc tế rộng khắp từ châu Á, châu Âu đến châu Mỹ với những trường đại học và viện nghiên cứu hàng đầu về hành chính công, quản trị công, chính sách công, như: Trường Đại học Indiana (Hoa Kỳ), Học viện Hành chính Quốc gia ENA, Trung tâm Đào tạo Cấp cao CHEMI (Cộng hòa Pháp), Trường Chính sách công Lý Quang Diệu (Xinh-ga-po)… Với mục tiêu kết nối và quảng bá hình ảnh Việt Nam với các nước trong khu vực và quốc tế, Học viện đã ĐTBD nhiều công chức, viên chức cao cấp của các quốc gia trong khu vực, khẳng định uy tín của Học viện và khẳng định uy tín của Việt Nam trong ĐTBD công chức, viên chức. Nhiều hoạt động hợp tác quốc tế về đào tạo, nghiên cứu khoa học đã được triển khai với các tổ chức, các học giả quốc tế để lại dấu ấn đậm nét về năng lực nghiên cứu khoa học của Học viện mà trong các diễn đàn khoa học tên Học viện được nhắc đến với sự trân trọng và đánh giá cao.
Với sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên của Đảng, Nhà nước, Bộ Nội vụ, sự hỗ trợ, phối hợp của cơ quan, tổ chức, đơn vị, sự lao động không ngừng nghỉ của cán bộ, viên chức, người lao động Học viện, Học viện đã có những đóng góp nhất định vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Học viện đã vinh dự được Ðảng và Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Lao động hạng Nhất, Nhì, Ba, nhiều huân, huy chương, phần thưởng và danh hiệu cao quý. Nhân dịp kỷ niệm 60 năm Ngày truyền thống (năm 2019), Học viện vinh dự được Ðảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhì (lần 2).
Học viện Hành chính Quốc gia – con đường phía trước
Khoa học và công nghệ đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp cùng với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, những hệ lụy từ đại dịch Covid-19 đã và đang đặt ra nhiều thách thức đối với mỗi quốc gia. Những tiến bộ công nghệ vượt bậc của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tạo ra những thay đổi, biến đổi, chuyển đổi rộng lớn trong đời sống xã hội, đòi hỏi mỗi quốc gia phải tư duy khách quan hơn, toàn diện hơn, đầy đủ hơn về con đường phát triển của mình. Trong bối cảnh đó, quản trị quốc gia cần phải thay đổi, thích ứng, dự báo được thách thức để ứng phó, đồng thời, tích cực, chủ động đón nhận cơ hội, vận hội để cơ hội phát triển không bị bỏ qua và quốc gia không nằm ngoài hành trình phát triển. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 mang đến nhiều cơ hội phát triển hơn nhưng chính cơ hội cũng có xu hướng đi qua nhanh hơn, vì vậy, thời gian cho việc nắm bắt và đưa ra quyết sách từ những cơ hội cũng ngắn hơn. Quản trị quốc gia phải tạo lập thể chế cho phát triển, cải thiện môi trường kinh doanh, khuyến khích sáng tạo, huy động nguồn lực, phát huy tinh thần khởi nghiệp, tạo động lực mới, xung lực mới cho phát triển. Quản trị quốc gia phải tạo động lực, khởi nguồn những ước mơ khởi nghiệp, kiến tạo nên những thế hệ doanh nhân, nhà kỹ nghệ, nhà văn hóa, nhà khoa học, nhà quản lý, những con người xuất sắc ở những lĩnh vực khác nhau. Quản trị quốc gia hiệu quả là yêu cầu cấp thiết và nền hành chính kiến tạo, liêm chính, phục vụ nhân dân, phục vụ cộng đồng doanh nghiệp đã trở thành mệnh lệnh, là mục tiêu, là thước đo cho nền hành chính Việt Nam trong thế kỷ XXI.
Để xây dựng nền hành chính nhà nước liêm chính, minh bạch, trách nhiệm, hiệu lực, hiệu quả, phục vụ người dân và doanh nghiệp, trụ cột quan trọng nhất chính là xây dựng đội ngũ CBCCVC. Trong giai đoạn hiện nay, đổi mới, sáng tạo là một động lực phát triển quan trọng của Việt Nam. Đội ngũ CBCCVC trong giai đoạn mới phải mang sẵn trong mình ý chí đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, biết làm, dám chịu trách nhiệm; ủng hộ sáng kiến, ủng hộ cái mới, cái sáng tạo và biết tạo lập những điều kiện cần thiết cho tinh thần đổi mới, sáng tạo được hiện thực hóa sinh động trong thực tế.
Trong sự nghiệp xây dựng đội ngũ CBCCVC liêm chính, phục vụ Nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp, Học viện phải tích cực, chủ động gánh vác một phần trách nhiệm. Là đơn vị sự nghiệp công lập hạng đặc biệt giúp Chính phủ, Bộ Nội vụ thực hiện chức năng ĐTBD CBCCVC, Học viện phải nỗ lực hơn nữa, góp phần khẳng định vai trò đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ Nội vụ trong việc xây dựng nền hành chính liêm chính, phục vụ Nhân dân và doanh nghiệp.
Học viện cần tiếp tục tư duy đầy đủ và toàn diện về vị thế chính trị, pháp lý, xã hội, sứ mệnh, trách nhiệm, tầm nhìn, khát vọng phát triển của Học viện trong tương lai trên nền của lịch sử 63 năm qua và kỳ vọng của Chính phủ, Bộ Nội vụ về Học viện. Trong giai đoạn hiện nay, các cơ sở ĐTBD nói chung, ĐTBD cán bộ, công chức, nhân lực chất lượng cao về hành chính công nói riêng (trong đó có Học viện) cần phải có lời giải đáp cho các nhiệm vụ:
Thứ nhất, các cơ sở ĐTBD cần phải bồi dưỡng tri thức khoa học và kỹ năng làm việc, lý luận phải đi đôi với thực hành, sự trưởng thành về kiến thức cần song hành với năng lực hành động thực tiễn.
Thứ hai, các cơ sở ĐTBD phải đào tạo được nhân lực theo nhu cầu xã hội và gắn với thực tiễn, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.
Thứ ba, các cơ sở ĐTBD phải đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục và đổi mới tư duy dạy và học, thay đổi phương thức cung cấp kiến thức cho người học, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của người học.
Thứ tư, nâng cao năng lực tự chủ, áp dụng cơ chế quản trị hiện đại trong mỗi cơ sở ĐTBD; khẳng định vị thế của mình bằng những lợi thế riêng có của mỗi một cơ sở ĐTBD; gắn kết, liên kết, chia sẻ nguồn lực tạo thành một mạng lưới ĐTBD tinh gọn, hiệu quả.
Thứ năm, bảo đảm sản phẩm của ĐTBD là những học viên có thêm được những phẩm chất đạo đức tốt đẹp, bản lĩnh chính trị cách mạng vững vàng, ý thức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân.
Để thực hiện tốt trọng trách mà Đảng và Nhà nước giao, Học viện cần tập trung thực hiện tốt những nhiệm vụ sau:
Một là, tiếp tục nghiên cứu, quán triệt và triển khai quan điểm, đường lối của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác ĐTBD CBCCVC, xác định: “Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”1. Và, “Gắn quy hoạch với ĐTBD theo tiêu chuẩn chức danh và đẩy mạnh thực hiện luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị để rèn luyện qua thực tiễn ở các lĩnh vực, địa bàn khác nhau”2.
Hai là, Học viện cần chủ động hơn nữa trong nghiên cứu, đề xuất đổi mới mô hình cơ cấu tổ chức phù hợp với nhiệm vụ ĐTBD CBCCVC và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao về hành chính công, chính sách công, quản trị công. Cần thiết lập và mang trong mình tầm nhìn, khát vọng trở thành một trung tâm ĐTBD cán bộ lãnh đạo, quản lý ngang tầm khu vực Đông Nam Á và châu Á – Thái Bình Dương, đủ năng lực đảm nhận những trọng trách lớn lao trong sự nghiệp ĐTBD CBCCVC, khẳng định vị thế khách quan trong ĐTBD cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp (nhất là cấp cao, cấp chiến lược) về hành chính công, chính sách công, quản trị công.
Ba là, trong ĐTBD, Học viện cần quán triệt sâu sắc nguyên tắc lấy học viên làm trung tâm, nhà trường làm nền tảng, giảng viên làm động lực. Mọi nỗ lực đổi mới cần hướng đến nâng cao chất lượng ĐTBD, để quá trình ĐTBD tại Học viện phải là quá trình phát triển năng lực cho đội ngũ CBCCVC, để sau quá trình ĐTBD, người học có tri thức, kỹ năng tốt hơn, tâm lực và động lực cao hơn.
Các giảng viên của Học viện phải thực sự “tinh thông” về tri thức, lý luận và thực tiễn. Trong giai đoạn tới, Học viện cũng cần dành nguồn lực cần thiết để tái cơ cấu và phát triển đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên, tăng cường các hoạt động trao đổi học thuật, các chương trình hợp tác quốc tế để ĐTBD nguồn nhân lực của Học viện. Học viện cần có kế hoạch đầu tư để phát triển năng lực cho đội ngũ giảng viên; đồng thời, có biện pháp cụ thể để thu hút nhiều hơn các nhà lãnh đạo, quản lý, chuyên gia, nhà khoa học có uy tín về hành chính công, chính sách công, quản trị công và các ngành lĩnh vực liên quan tham gia vào quá trình ĐTBD tại Học viện.
Bốn là, Học viện tiếp tục nghiên cứu, đổi mới các chương trình, tài liệu ĐTBD. Nội dung chương trình, tài liệu phải gắn kết với nhu cầu và yêu cầu thực tiễn, bù đắp những thiếu hụt về năng lực cho đội ngũ CBCCVC; đồng thời, trang bị những năng lực nền tảng cần thiết cho công việc trong tương lai. Kiến thức được truyền thụ phải tươi mới, không giáo điều, khô cứng, cũ kỹ, lạc hậu và trùng lặp. Cần xác định chuẩn đầu ra, xây dựng các cấp độ năng lực cho mỗi chương trình bồi dưỡng một cách cụ thể, chi tiết, có sự lượng hóa cần thiết, có thể so sánh, kiểm tra và đánh giá. Chương trình, tài liệu ĐTBD không chỉ tập trung vào tri thức mà còn phát triển kỹ năng, định hướng giá trị, định hướng về nhân cách, phẩm chất, thiết lập khát vọng tương lai cho đội ngũ CBCCVC, gắn kết giữa nâng cao kỹ năng phân tích, đánh giá, dự báo với xử lý tình huống thực tiễn.
Năm là, Học viện cần đặc biệt đầu tư nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học, nâng cao tính độc lập, sáng tạo trong hoạt động nghiên cứu, tạo ra những sản phẩm có giá trị thực tiễn sâu sắc. Các sản phẩm khoa học phải góp phần tạo ra tri thức mới phục vụ có hiệu quả công tác ĐTBD đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý tiên phong, những nhà quản lý chiến lược có tầm nhìn toàn cầu, rộng mở, có khả năng gánh vác những trọng trách của đất nước, góp phần giải quyết những vấn đề thực tiễn cấp bách trong QLNN.
Sáu là, đổi mới phương pháp dạy và học tại Học viện. Nền kinh tế tri thức, xã hội thông tin, đại dịch Covid-19 vừa qua đang đòi hỏi sự thay đổi mạnh mẽ từ nội dung đào tạo đến phương thức dạy và học, cách thức mà ở đó thầy và trò tương tác với nhau; cách thức mà tri thức được tạo ra cho đến sự tiếp cận và lĩnh hội tri thức. Vì vậy, phương thức ĐTBD CBCCVC cũng cần được làm mới. Học viện cần chủ động xây dựng các phương án linh hoạt, thích ứng với bối cảnh dịch bệnh, vừa nâng cao chất lượng quản lý, ĐTBD, vừa phòng, chống dịch bệnh, bảo đảm an toàn sức khỏe cho viên chức, giảng viên, học viên; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động của Học viện.
ĐTBD CBCCVC trực tuyến, kết hợp đa phương tiện cần được nghiên cứu, phát triển, bổ khuyết cho các phương thức ĐTBD truyền thống. Muốn vậy, Học viện cần có hệ thống cơ sở vật chất, hạ tầng đủ mạnh. Dự án xây dựng, bổ sung, thay thế Học viện tại Hà Nội với kỳ vọng để tạo nên điều kiện cần thiết đó. Học viện cần triển khai thực hiện dự án một cách đúng quy định, hiệu quả nhất, tiết kiệm nhất. Đồng thời, Học viện cần năng động hơn trong hợp tác, liên kết quốc tế, thu hút đầu tư từ bên ngoài để bên cạnh việc tiếp thu kinh nghiệm, tinh hoa tri thức nhân loại còn có thêm nguồn lực để nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị.
Học viện cần không ngừng đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập, phát huy tính tích cực, sáng tạo, tự giác, tự học, tự nghiên cứu của người học, tăng cường trao đổi, thảo luận, tranh luận trong quá trình giảng dạy và học tập, kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa đào tạo lý thuyết trên giảng đường với nghiên cứu kinh nghiệm trong thực tiễn, học đi đôi với hành, chú trọng nâng cao trình độ kiến thức, năng lực tư duy sáng tạo, phương pháp quản lý, điều hành khoa học…
Bảy là, mở rộng hợp tác quốc tế phù hợp với đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực ĐTBD và nghiên cứu khoa học hành chính. Tích cực nghiên cứu, tiếp thu những kinh nghiệm tốt về ĐTBD công chức, viên chức để vận dụng vào thực tiễn Việt Nam, phù hợp với điều kiện lịch sử, văn hóa và quá trình hình thành bộ máy nhà nước, gắn liền với lịch sử của Đảng ta, của dân tộc ta. Trước mắt, Học viện tiếp tục duy trì và phát triển các chương trình liên kết đào tạo, nghiên cứu với các đối tác hiện có; thực hiện thành công các dự án đang tiến hành và khai thác, tạo được nhiều chương trình ĐTBD dài hạn và ngắn hạn cho cán bộ, giảng viên của Học viện. Đồng thời, để đáp ứng yêu cầu mở rộng hợp tác quốc tế trong những năm tiếp theo, Học viện cần chú trọng phát triển hơn nữa năng lực hợp tác quốc tế, chủ động tìm kiếm và xây dựng mối quan hệ với các đối tác quốc tế thay vì thụ động chờ đợi sự hỗ trợ từ phía đối tác.
Từ truyền thống 63 năm của Học viện, các thế hệ lãnh đạo, quản lý, viên chức, người lao động của Học viện có quyền tự hào về truyền thống, bề dày là trung tâm quốc gia về ĐTBD CBCCVC. Từ niềm tự hào đó, tập thể Học viện cần nỗ lực hơn nữa để Học viện là ngọn hải đăng trong sự nghiệp ĐTBD CBCCVC, nghiên cứu khoa học, tham mưu, tư vấn chính sách về hành chính và QLNN cho Đảng và Nhà nước, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng về đại học và sau đại học cho khu vực công, hệ thống chính trị – xã hội, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Chính phủ và Nhân dân.