Năm nào cũng vậy, cứ đến tháng ba, tháng tư, mỗi ngày cửa khẩu Tân Thanh, tỉnh Lạng Sơn lại ùn hàng trăm ô tô chờ làm thủ tục xuất khẩu sang Trung Quốc, chủ yếu là dưa hấu và thanh long với khối lượng từ 8.000 – 10.000 tấn. Càng vào chính vụ, lượng dưa hấu và thanh long từ các tỉnh miền Trung dồn về Tân Thanh càng nhiều, nên nguy cơ ùn tắc tại cửa khẩu càng trầm trọng hơn.
Các cơ quan chức năng cho rằng do khả năng tiếp nhận của kho bãi bên phía Trung Quốc hạn chế. Khu bãi Pò Chài chỉ giải phóng được khoảng 300 xe, trong khi lúc cao điểm, mỗi ngày có khoảng 700 – 800 xe. Tóm lại, nguyên nhân là do khách quan.
Đã từng có một thời quả dưa hấu mang lại nguồn thu hàng chục triệu đồng trên một hecta đất bạc màu sau 3 tháng chăm nom. Nhiều gia đình ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định đã phất lên nhờ dưa. Thế là nhà nhà đổ xô đi trồng dưa, để rồi phải gánh chịu bao hệ lụy. Bởi chỉ sớm, muộn chừng nửa tháng, người giàu có, kẻ trắng tay với dưa là chuyện thường. Mùa thu hoạch rộ, dưa chất đống bên quốc lộ 1A chờ thương lái tới mua. Giá dưa tụt dốc, nhất là loại dưa hấu quả tròn, chất lượng thấp. Dưa hấu, thanh long lại là thứ hàng khó bảo quản, chỉ cần chậm mấy ngày không kịp xuất qua biên giới, chủ hàng phải bán đổ bán tháo để quay về. Người trồng dưa thất thu đã đành, cánh thương lái cũng lỗ “chỏng vó” với dưa.
Đâu chỉ dưa hấu, những loại trái cây đặc sản như vải, nhãn, xoài, thanh long… của Việt Nam cũng thường xuyên phải bán đổ bán tháo, một khi việc xuất khẩu sang Trung Quốc trục trặc. Cách hợp đồng bằng miệng, “đánh hàng” theo chuyến, buôn bán theo mùa, theo vụ xem ra không còn phù hợp.
Vì lợi ích trước mắt, nông dân có thể “mạnh ai nấy làm” nhưng để năm nào cũng xảy ra cảnh nông sản ùn ứ hàng chục ngàn tấn mỗi ngày ở cửa khẩu khi vào vụ, nguyên nhân thuộc về trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước, mà trước hết là 2 ngành Nông nghiệp và Công thương.
Xuống phố bán 14 tấn dưa “Hỗ trợ cho nông dân miền Trung” là một việc làm tốt. Nhưng cái nông dân cần không chỉ có vậy! Hãy chung tay vì sự phát triển của một nền nông nghiệp hiện đại, để nông dân Việt Nam không còn đơn độc trên đồng ruộng của mình, không còn cảnh “ăn chực nằm chờ” ở cửa khẩu bằng những chính sách mang tầm vĩ mô, từ quy hoạch vùng sản xuất, đến trang bị kỹ thuật trồng trọt, thu hoạch, sơ chế, bảo quản để gia tăng giá trị nông sản; bằng các chương trình xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu một cách bài bản hơn. Có như vậy nông sản Việt Nam mới tránh được cảnh “ăn chực nằm chờ”, có được những mùa vàng bội thu bằng chính thành quả lao động của mình.